Duy Xuyên là địa phương có nghề truyền thống Trồng dâu- Nuôi tằm - Ươm tơ- Dệt lụa. Trong nhiều thời kỳ đã góp phần mang lại sự thịnh vượng về kinh tế - xã hội, bảo vệ môi trường sinh thái và đậm tính nhân văn, là một trong những tiềm năng có đủ động lực tương thích để đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên con đường hội nhập.
Tuy nhiên,với đặc trưng của nghề, trong hệ thống sản xuất và tiêu thụ luôn bị tác động lớn của nền kinh tế thị trường nên không tránh khỏi sự thăng trầm. Mặc dầu trong nhiều năm qua, nhà nước các cấp đã có nhiều chủ trương, chính sách để khôi phục và phát triển, từ diện tích dâu 58 ha với 130 hộ hành nghề năm 2000 tăng lên 251ha với 476 hộ nuôi tằm năm 2002, đến nay (11/2010) chỉ còn 15 ha dâu với hơn 40 hộ nuôi tằm. Do kết hợp với nhiều nguyên nhân như giá kén thấp dưới giá thành kéo dài, chất lượng trứng giống tằm kém, cơ sở hạ tầng không đáp ứng được yêu cầu sản xuất, đất đai thiếu công tác quy hoạch nên diện tích dâu manh mún, nhỏ lẻ, đang xen giữa nhiều loại cây trồng, tình hình cung ứng đầu vào và tiêu thụ sản phẩm lắm nhiêu khê ... bên cạnh đó một trong những nguyên nhân không kém phần quan trọng tác động không thuận lợi đến sự duy trì, phát triển nghề trồng dâu - nuôi tằm là sử dụng thuốc BVTV ngày càng tăng để sản xuất các loại cây trồng trong nông nghiệp, ảnh hưởng đến cây dâu và môi trường nuôi tằm trong cộng đồng dân cư.
Trong năm 2010, được sự quan tâm của Trung tâm nghiên cứu Dâu - Tằm - Tơ Việt Hùng ( thuộc Bộ NN&PTNT ) triển khai Dự án KHCNNN về giống dâu lai và giống tằm mới trên địa bàn tỉnh Quảng Nam, tham gia thực hiện Dự án có 21 hộ tại xã Duy Châu, kết quả 5 lứa nuôi với 120 hộp trứng giống tằm mới đạt 3840 kg kén, bình quân năng suất 32 kg kén / hộp trứng tằm, giá kén từ 70.000- 75.000 đồng/ kg, mỗi hộ bình quân thu hơn 7.000.000 đồng. Từ kết quả đó, hiện nay nhiều hộ nông dân đang đăng ký, thuê đất trồng dâu tham gia Dự án năm 2011. Do nhu cầu tơ lụa trên thị trường đang tăng, HTX làng nghề tơ lụa Mã Châu của Thị trấn Nam Phước đang xúc tiến các bước để triển khai xây dựng vùng nguyên liệu trồng 8 ha dâu với 30 hộ nuôi tằm trong vụ ĐX 2010- 2011và sẽ nhân rộng ra trên địa bàn huyện trong những năm đến với quy mô 200 ha dâu, đạt sản lượng kén tằm từ 200 - 300 tấn để phục vụ kế hoạch phát triển của HTX. Như vậy, tín hiệu tốt từ nhiều đối tác trong tiến trình khôi phục và phát triển nghề trồng dâu nuôi tằm, ươm tơ, dệt lụa, sản phẩm sau lụa, phục vụ du lịch làng nghề trên địa bàn huyện trong những năm đến là có nhiều hứa hẹn.
Trong sản xuất nông nghiệp hiện nay, xu thế thâm canh tăng vụ, tăng diện tích, thay đổi cơ cấu giống cây trồng nên tình hình sâu bệnh diễn biến phức tạp hơn. Vì vậy số lượng và chủng loại thuốc BVTV sử dụng cũng tăng lên, theo số liệu của ngành BVTV, bình quân nông dân đã sử dụng thuốc BVTV từ 1,15 - 2,66 kg thành phẩm/ ha/ năm. Do các loại thuốc BVTV thường là các chất hóa học có độc tính cao nên mặt trái của thuốc BVTV là rất độc hại với sức khỏe cộng đồng và là một đối tượng có nguy cơ cao gây ô nhiễm môi trường sinh thái nếu không được quản lý chặt chẽ và sử dụng đúng cách. Trong thực tế việc quản lý, huớng dẫn, sử dụng thuốc BVTV còn bộc lộ nhiều bất cập chưa tương xứng với yêu cầu của nền sản xuất nông nghiệp sạch. Việc tăng liều lượng thuốc, tăng số lần phun thuốc, dùng thuốc BVTV không theo hướng dẫn, lạm dụng thuốc đã dẫn đến hậu quả gây ra hiện tượng kháng thuốc, làm mất hiệu lực thuốc, để tồn dư lượng thuốc BVTV quá mức cho phép trong nông sản, thực phẩm, đất đai, nguồn nước là mối đe dọa thường trực đối với sức khỏe con nguời và môi trường.
Ngoài ra, hiện tượng đáng lo ngại hơn là việc mua bán thuốc BVTV đang diễn ra trên thị trường bao gồm cả thuốc cấm, thuốc ngoài danh mục, thuốc hạn chế sử dụng... đang là vấn đề chưa thể kiểm soát nổi. Cùng với thuốc BVTV, việc nông dân không chú trọng tuân thủ thời gian cách ly sau khi phun thuốc, tình trạng vứt bỏ bao bì bừa bãi sau sử dụng khá phổ biến. Thói quen rửa bình bơm và dụng cụ pha chế không đúng nơi quy định cũng đã góp phần đáng kể gây ra ô nhiễm nguồn nước, đất, ngộ độc cho các động vật khác.
Để giải quyết hài hòa giữa việc sử dụng thuốc BVTV để bảo vệ sản xuất nông nghiệp bền vững phải đi đôi với việc bảo vệ sức khỏe cộng đồng và môi trường sinh thái (trong đó có điều kiện thuận lợi cho phát triển nghề dâu tằm). Vì vậy, nhiệm vụ phòng chống ô nhiễm và suy thoái môi trường do sản xuất, kinh doanh và sử dụng thuốc BVTV phải được coi là mục tiêu của các cơ quan quản lý nhà nước và có định tính xã hội hóa cao. Muốn đạt được mục tiêu đó nên chăng cần một số giải pháp sau đây:
* Về pháp lý:
- Nhà nước các cấp, với thẩm quyền quản lý nhà nước trên địa bàn hành chính cụ thể cần có chế độ ưu đãi, ban hành cơ chế chính sách, hỗ trợ, khuyến khích cho các chương trình sản xuất và ứng dụng các sản phẩm hữu cơ, vi sinh vào công tác phòng trừ sinh vật gây hại tài nguyên thực vật. Kiểm tra, kiểm soát để chọn lọc các loại thuốc, dạng thuốc BVTV an toàn có tính chọn lọc cao, phân giải nhanh trong môi trường.
- Tăng cường công tác thanh kiểm tra thường xuyên để xử lý nghiêm các vi phạm trong lĩnh vực bảo vệ thực vật.
- Khuyến khích, có cơ chế phù hợp, tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức, doanh nghiệp kinh doanh vật tư nông nghiệp triển khai ứng dụng và phát triển các dạng thuốc BVTV mới thân thiện với môi trường, ít ảnh hưởng đến môi trường và sức khỏe cộng đồng.
* Về kỹ thuật:
- Đẩy mạnh việc áp dụng các tiến bộ kỹ thuật trong trồng trọt theo hướng sản xuất nông nghiệp sạch, nâng cao hiểu biết của người nông dân trong việc sử dụng thuốc BVTV an toàn và có hiệu quả từ đó giảm thiểu dần lượng thuốc BVTV trong sản xuất. Chú trọng việc thu gom và xử lý bao bì thuốc sau sử dụng. Duy trì và mở rộng việc áp dụng IPM vì chương trình này đã thực tế chứng minh rằng không những tiết kiệm chi phí mua thuốc mà còn góp phần làm giảm thiểu ô nhiễm môi trường.
- Xây dựng và phát triển các vùng chuyên canh sản xuất các sản phẩm nông nghiệp sạch, hạn chế dùng phân bón hóa học và thuốc BVTV có hại cho môi trường và sức khỏe.
- Xây dựng và ứng dụng ở phổ rộng các quy trình BVTV cho cây trồng giảm dần các loại thuốc có độc tính cao, tồn lưu lâu trong môi trường bằng các loại thuốc thế hệ mới có độc tính thấp, ít tồn lưu trong môi trường.
* Về tuyên truyền và huấn luyện:
- Đẩy mạnh các biện pháp tuyên truyền, giáo dục nhằm nâng cao năng lực quản lý môi trường, nâng cao nhận thức về trách nhiệm và nghĩa vụ của những người sản xuất, kinh doanh và sử dụng thuốc BVTV trong việc bảo vệ sức khỏe cộng đồng và môi trường. Hy vọng rằng việc thực hiện tốt quy định của Pháp lệnh Bảo vệ và Kiểm dịch thực vật không những phù hợp với chiến lược phát triển một nền nông nghiệp sạch và bền vững mà còn hạn chế đến mức thấp nhất ảnh hưỏng xấu của thuốc BVTV đến sức khỏe cộng đồng và môi trường, trong đó tác động tích cực đến sự khôi phục và phát triển nghề truyền thống trồng dâu, nuôi tằm, ươm tơ, dệt lụa, sản phẩm sau lụa phục vụ du lịch làng nghề, góp phần đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng nền kinh tế huyện nhà trong những năm đến./.